Tràn khí, tràn máu màng phổi do chấn thương là một bệnh cảnh nghiêm trọng, có nguy cơ đe dọa tính mạng người bệnh, cần được can thiệp cấp cứu kịp thời
1. Tràn máu, tràn khí màng phổi là gì?
- Tràn máu, tràn khí màng phổi là một trong các thể bệnh thường gặp nhất khi xảy ra chấn thương ngực kín. Trong điều kiện bình thường, khoang màng phổi là khoang không có không khí, áp suất âm từ -10mmHg đến -12mmHg. Áp suất âm giúp phổi nở ra trong khi hô hấp.
- Khi bị chấn thương ngực kín, không khí vào khoang màng phổi thường từ chỗ rách nhu mô phổi, máu vào khoang màng phổi từ chỗ rách nhu mô phổi, ổ gãy xương sườn và thương tổn các tạng trong lồng ngực. Máu nằm ở vùng thấp, khí nằm ở vùng cao. Máu và khí sẽ choán chỗ và đè đẩy nhu mô phổi, gây mất áp lực âm trong khoang màng phổi, gây xẹp phổi , trung thất sẽ bị đẩy sang bên đối diện.
- Nếu tràn khí màng phổi quá nhiều, có thể gây tràn khí dưới da, thậm chí lan ra toàn bộ ngực-bụng- cổ- mặt. Nguyên nhân thường do rách nhu mô phổi nhiều hoặc do rách các phế quản lớn.
2. Triệu chứng
- Khó thở và đau ngực liên tục, tăng dần. Với các chấn thương nặng, khó thở và đau ngực sẽ xuất hiện ngay sau chấn thương. - Suy hô hấp: nếu tràn máu - tràn khí khoang màng phổi mức độ nặng, người bệnh sẽ có các biểu hiện như tím môi- đầu chi, mạch nhanh, độ bão hòa oxy SpO2 giảm, vã mồ hôi. - Thiếu máu:Có thể xuất hiện các biểu hiện như da xanh, niêm mạc nhợt nhạt, mạch nhanh, chân tay lạnh, vã mồ hôi. - Các dấu hiệu thực thể: Biên độ hô hấp giảm ở bên ngực thương tổn, bệnh nhân thở nhanh nông, có triệu chứng phập phồng cánh mũi, co kéo các cơ hô hấp ở cổ, ngực khi hít vào.
3. Kết quả cận lâm sàng:
- Chụp X-quang:có thể thấy hình ảnh gãy xương sườn, hình ảnh tràn khí dưới da, trung thấy bị đẩy sang bên lành, tràn khí khoang màng phổi, xẹp phổi bên tổn thương. - Xét nghiệm huyết học: bạch cầu tăng cao, có thể có dấu hiệu thiếu máu. - Chụp cắt lớp vi tính: thấy hình ảnh mức độ tràn máu - tràn khí màng phổi. - Siêu âm màng phổi: thấy có dịch máu trong khoang màng phổi.
4. Điều trị tràn máu- tràn khí màng phổi chấn thương
- Dẫn lưu tối thiểu khoang màng phổi: tiến hành vô cảm bằng gây tê tại chỗ, dẫn lưu qua khoang liên sườn 5 đường nách giữa. Nếu tràn khí nhiều, có thể đặt thêm một dẫn lưu khí qua khoang liên sườn 2- đường giữa đòn. - Phẫu thuật lồng ngực: để tiến hành cầm máu các tổn thương mạch máu lớn ở thành ngực và nhu mô phổi. Khi dẫn lưu ra máu ngay > 1500ml trong vòng 6 giờ sau khi bị thương hoặc theo dõi sau dẫn lưu thấy ra máu >200ml trong 3 giờ liền. Nếu dẫn lưu ra khí nhiều, phổi không nở, huyết động không cải thiện, bác sĩ có thể chỉ định mở ngực khâu các chỗ rách phổi- phế quản.
Tác giả bài viết: NCQ, Phòng Dân số - Truyền thông, Giáo dục sức khỏe